Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của người cộng sản mẫu mực, kiên định trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân. Đó là đạo đức của người chiến sĩ suốt đời đấu tranh, dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp của mình cho lý tưởng và mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Do đó, đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức hành động.
1. Khái quát đạo đức Hồ Chí Minh
Luận bàn minh triết và minh triết Việt, cố Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: “… trong nền minh triết Việt có nhiều nguồn, có minh triết lục giáo, có minh triết đạo thờ cúng tổ tiên… có minh triết văn hóa các dân tộc anh em. Trong thời đại Hồ Chí Minh, minh triết Hồ Chí Minh với sức thấm sâu và lan tỏa rộng trong lòng dân là nguồn trung tâm trong đa nguồn minh triết Việt”(1). Đồng thời, cố Giáo sư nhấn mạnh “minh triết chính trị của Hồ Chí Minh là một kho báu vô giá”(2). Đặc trưng của minh triết Hồ Chí Minh nói chung, đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng là vận dụng ý tưởng tinh hoa của nhân loại, đặc biệt của các vị tiền nhân phương Đông mà dân tộc ngưỡng mộ, cô đúc thành thông điệp mang tâm thức Việt để giáo dục cho nhân dân Việt Nam. Vì thế, đạo đức Hồ Chí Minh là điểm nhấn định hướng giá trị đạo đức trong thời đại mới.Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của người cộng sản mẫu mực, kiên định trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân. Đó là đạo đức của người chiến sĩ suốt đời đấu tranh, dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp của mình cho lý tưởng và mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Do đó, đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức hành động.
Đạo đức Hồ Chí Minh là cả một hệ thống lý thuyết, tư tưởng phong phú và tinh tế, nổi bật các đức tính, chuẩn mực “cần, kiệm, liêm, chính” - bốn đức tính mà thiếu một đức thì không thành người. Đó là yêu cầu ứng xử chí công vô tư, là bản lĩnh biết quên mình, biết vượt qua những vướng bận, toan tính cá nhân để vì người chứ không vì mình, vị tha chứ không vị kỷ. Bản lĩnh này là sức mạnh bền bỉ để đánh bại chủ nghĩa cá nhân, chiến thắng giặc nội xâm, suốt đời tu dưỡng đạo đức cách mạng, coi phục vụ nhân dân là phục tùng một chân lý lớn nhất, là lẽ sống cao thượng nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tự mình nêu gương không chỉ thực hành mà còn làm hết sức mình, công phu rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng cho lớp lớp cán bộ, đảng viên, cho quần chúng nhân dân ở mọi tầng lớp, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính. Làm cho cái hay, cái tốt ở mỗi con người nảy nở, còn cái dở, cái xấu sẽ mất dần đi.
Có thể khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà đạo đức học. Người không phải là nhà đạo đức học hàn lâm, kinh viện mà là một nhà đạo đức học thực hành, thực hành một cách biện chứng, sáng suốt, trí tuệ và nhân văn. Lý thuyết đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển hóa, lan tỏa vào thực tiễn đạo đức xã hội. Đó là một nét riêng, đặc thù, in đậm dấu ấn, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người vẫn thường căn dặn chúng ta nói ít làm nhiều, cái chủ yếu là hành động. Chỉ nói và viết khi cần thiết, lại phải nói và viết ngắn gọn, giản dị sao cho quần chúng dễ hiểu, hiểu để làm, làm đúng và làm tốt. Hơn nữa, để quần chúng noi theo, làm theo thì mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu làm trước, đã nói thì phải làm, lời nói đi đôi với việc làm.
Đạo đức Hồ Chí Minh và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là thống nhất nhưng không đồng nhất. Tư tưởng đạo đức là phần lý luận, là triết lý của Người. Đạo đức Hồ Chí Minh còn là đời sống đạo đức của bản thân Người với tư cách là một con người bình thường giữa muôn người khác, dù hết sức vĩ đại nhưng lúc nào và ở đâu, Người cũng chỉ coi mình là một con người bình thường. Tìm hiểu nghiên cứu hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự phong phú của các mối quan hệ giữa Người với nhân dân, với Đảng, với các địa phương, vùng, miền trong cả nước, với bạn bè quốc tế, tình cảm yêu mến, sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ của nhân dân ta và nhân dân các dân tộc trên thế giới dành cho Người. Bỏ qua phương diện này trong nghiên cứu sẽ là một thiếu hụt lớn, sẽ không thể hình dung được sự sâu sắc, phong phú, đa dạng trong tư tưởng và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thế giới tinh thần, lối sống và nhân cách của Người.
Như vậy, đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung cơ bản và toàn diện, cần được hiểu một cách đầy đủ, đó không chỉ là tư tưởng mà còn là thực tiễn đời sống đạo đức của Người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm cơ bản và toàn diện về đạo đức, bao gồm vị trí, vai trò, nội dung; những phẩm chất đạo đức cơ bản và những yêu cầu xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức đối với người cách mạng. Tư tưởng đạo đứcHồ Chí Minh trở thành tài sản tinh thần vô giá đối với Đảng, với nhân dân đó là bởi tấm gương đạo đức cao đẹp của Người. Tấm gương đó được thể hiện qua hoạt động, hành vi và lối sống, qua các mối quan hệ với con người, với công việc, trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Ở đâu, lúc nào, với mọi đối tượng khác nhau, Người cũng là hiện thân sinh động của tính nhất quán giữa nói và làm, tính trung thực và sự khiêm tốn; tính kiên định về yêu cầu và niềm tin gắn liền với tính linh hoạt và uyển chuyển trong phương pháp đối nhân xử thế; lòng dũng cảm, sự sáng suốt, đức hy sinh và nghị lực phi thường vượt lên mọi khó khăn, thử thách; sự ân cần, chu đáo, lòng khoan dung độ lượng đầy tính nhân ái, vị tha đối với mỗi con người. Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là tình người mênh mông, nâng niu giá trị con người, là tình nghĩa thủy chung son sắt. Suốt đời Người sống một cuộc sống đạm bạc mà tao nhã vô cùng. Người chỉ viết và nói những lời, những chữ mộc mạc bình dị không màu mè tô vẽ nhưng đi thẳng vào lòng người. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cốt ở thực hành đạo đức, nêu gương đạo đức trong lao động, trong đấu tranh cho tình thương và lẽ phải, cho cái hay, cái tốt. Đó là niềm tin vào chiến thắng của cái thiện đối với cái ác.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một nhà tư tưởng lớn mang tầm vóc thời đại, danh nhân văn hóa thế giới, cốt cách hiền triết Á Đông, tiêu biểu cho tinh hoa dân tộc. Đạo đức Hồ Chí Minh đã trở thành cái vô hạn trong lòng dân tộc Việt Nam để đi vào đời sống nhân loại.
2. Bản chất, đặc điểm, nội dung đạo đức Hồ Chí Minh
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên, cuốn “Đường Kách Mệnh”, Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, vấn đề đầu tiên được đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1969), đăng trên báo Nhân dân, bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Trước khi đi xa, trong bản Di chúc, khi nói về Đảng, Người căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, thanh niên. Tư tưởng và thực tiễn đạo đức trong cuộc đời của Người đã hình thành nên đạo đức Hồ Chí Minh.
- Bản chất đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, là đạo đức của người cách mạng trong thời kỳ giải phóng dân tộc đi lên xây dựng CNXH ở Việt Nam, đó là đạo đức vì dân, vì mọi người. Người khẳng định: đạo đức chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cách mạng và trong điều kiện đó nó mới tạo ra một sức mạnh to lớn cho sự nghiệp của chúng ta.
Đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp khác với đạo đức cũ về chất. Đó là kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”(3). Đạo đức cũ - đạo đức thực dân, phong kiến là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm trói buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo đức mới là vì nước, vì dân. Đây là đạo đức vĩ đại, bởi lẽ, đạo đức đó “... không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”(4).
- Đặc điểm đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện ở tính thực tế, tính toàn diện và tính thống nhất:
Tính thực tế trong đạo đức Hồ Chí Minh hình thành không phải do sự suy lý tư biện mà do chính sự tổng kết thực tiễn đạo đức xã hội Việt Nam, đạo đức của con người Việt Nam, nhất là tổng kết kinh nghiệm rèn luyện tu dưỡng đạo đức của chính bản thân Hồ Chí Minh được nâng lên tầm lý luận, qua sự làm gương và nêu gương, qua các gương người tốt, việc tốt hàng ngày mà đúc kết thành luân lý, thành chuẩn mực điều chỉnh hành vi của người Việt Nam trong hoạt động sống.
Tính toàn diện được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập cho mọi đối tượng (sĩ, nông, công, thương, chính khách, tu hành, nam, nữ, ấu, phụ), cho mọi lĩnh vực (lao động, sản xuất, học tập, công tác, chiến đấu), mọi phạm vi (từ gia đình đến xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế), mọi quan hệ (với mình, với người, với việc, với đoàn thể). Không chỉ bàn và đề cập đến, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu các tiêu chí, tiêu chuẩn đạo đức để mỗi đối tượng rèn luyện, tu dưỡng và làm theo, như 5 điều Bác Hồ dạy thiếu nhi, 6 lời dạy công an nhân dân...
Đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện tính thống nhất: giữa đức với tài, giữa hồng với chuyên, giữa hành vi đạo đức với ý thức đạo đức, giữa đạo đức với pháp luật, giữa đạo đức với chính trị, đạo đức đời thường với đạo đức cách mạng... nhất là sự thống nhất trong văn hóa đạo đức, trong từng nội dung khái niệm, chuẩn mực đạo đức, trong quan hệ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đặc biệt quan trọng là “nói phải làm” và tấm gương sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nói đi đôi với làm, nhiều khi làm nhiều hơn những điều đã nói, luôn làm gương và nêu gương cho mọi người xung quanh.
Đạo đức cách mạng, dù xét ở góc độ nào, cuối cùng đều nhằm đem lại độc lập - tự do - hạnh phúc cho Tổ quốc, nhằm giải phóng con người một cách toàn diện và triệt để nhất. Vì vậy đạo đức đó phải là sự thống nhất biện chứng của nhiều mặt, mang tính toàn diện. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự gắn bó giữa dân tộc và nhân loại, phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại.
Nội dung đạo đức Hồ Chí Minh có thể khái luận ở các vấn đề sau:
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi người. Người cho rằng: đạo đức là gốc của người cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân...”(5).
Hai là, đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện ở những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại: trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là suốt đời trau dồi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa; tinh thần quốc tế trong sáng.
Ba là, đạo đức Hồ Chí Minh biểu hiện ở những yêu cầu xây dựng đạo đức mới trong xã hội và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là: nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức; xây đi đôi với chống; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Bốn là, tấm gương trong sáng, mẫu mực về đạo đức của Người trong đời sống đạo đức hàng ngày. Người đã thực hiện nhất quán giữa tư tưởng đạo đức và hành động đạo đức. Suốt một đời tận tụy vì dân, vì nước, Người là biểu tượng cao quý của đức hy sinh, lo cho dân, sống vì dân, thấu hiểu dân tình, dân sinh, dân ý, trở thành lãnh tụ của dân, thân dân và chính tâm. Tình thương yêu rộng lớn của Người đối với nhân dân, đồng bào là không bao giờ thay đổi. Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, đó là phương châm ứng xử và hành động của Người.
3. Hệ thống giá trị đạo đức Hồ Chí Minh
Từ thời cổ đại, loài người đã đưa ra hệ giá trị chân, thiện, mỹ, đến nay vẫn được coi là hệ thống giá trị phổ quát ở khắp nơi. Trên cơ sở kế thừa, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cái thiện, cái đức là cốt lõi, là thước đo của mọi giá trị trên cơ sở hệ thống giá trị sau:
- “Thiện”: là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc sống hàng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện phải được thể hiện qua việc góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đem lại lợi ích cho mọi người trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: việc thiện thì dù nhỏ đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng tránh. Cái thiện là phấn đấu cho cuộc sống của con người ngày càng trở nên cao thượng hơn, tốt đẹp hơn và giàu tính nhân văn hơn.
- “Trung - hiếu”: khái niệm trung, hiếu đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam và phương Đông, là chuẩn mực đạo đức phong kiến mà Nho giáo đề ra. Trung của Nho giáo là trung với vua, bó hẹp trong phạm vi quan hệ vua tôi, phải hết sức thờ vua trong bất kỳ điều kiện nào. Hiếu là hiếu với cha mẹ, phải kính trọng thương yêu và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục. Khái niệm trung, hiếu đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng cao, phát triển với ý nghĩa mới, mang tính giai cấp công nhân sâu sắc. Trung với nước, với Đảng, với lý tưởng cách mạng, còn hiếu không chỉ đối với cha mẹ mà còn là bao hàm một nội dung sâu rộng hơn là hiếu với dân, với đồng bào.
- “Nhân - trí - dũng”: Nhân theo quan điểm Hồ Chí Minh là tính thật thà, thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào, kiên quyết chống lại những người, những việc có hại cho Đảng, có hại với dân, sẵn lòng khổ trước mọi người, vui sau thiên hạ, không ham giàu sang, quyền quý, chức vị, không sợ gian khổ, hy sinh. “Nhân” bao hàm cả sự “trung hiếu” và được thừa kế, phát triển từ những tư tưởng “từ bi” của Phật giáo góp phần nuôi dưỡng lòng nhân ái, đó là “tận trung với nước, tận hiếu với dân” nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân, giải phóng con người, chống lại những việc làm hại nước, hại dân.
Trí là đầu óc trong sạch, sáng suốt, có trình độ giác ngộ chính trị, biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận vào thực tiễn để tìm ra phương hướng thực hiện đúng đắn. Trong hoạt động thực tiễn, phải có sự đầu tư trí tuệ cho công việc, tích cực tìm tòi, sáng tạo, mang hết khả năng của mình cống hiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự đoàn thể, phụng sự nhân dân, thường xuyên học tập, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn là nhiệm vụ bắt buộc đối với mỗi cán bộ, đảng viên, vì “dốt nát cũng là kẻ địch”. Việc học tập, nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, đảng viên phải được quy định thành chế độ; lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên cập nhật những thông tin, tri thức mới của thời đại cũng là biểu hiện của sự thoái hóa.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý không chính đáng. Dũng cảm đấu tranh với thiên tai, như: bão lụt, dịch họa, chiến tranh xâm lược và những âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Dũng còn là dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và mạnh dạn đổi mới. Bên cạnh đấu tranh với cái xấu, cái ác, cái lạc hậu lỗi thời, dũng còn là dũng cảm đấu tranh để bảo vệ cái tốt, cái thiện, cái đúng, bảo vệ chân lý, cái mới đang lên. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.
- “Cần - kiệm - liêm - chính”: là những khái niệm đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam đã được Hồ Chí Minh sử dụng. Người đã giữ lại những gì tốt đẹp của quá khứ và đưa vào những nội dung mới mà vẫn đúng với những ý nghĩa ban đầu của các khái niệm đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên kêu gọi, giáo dục mọi người thực hiện cần, kiệm, liêm, chính và Người đã giải thích rất rõ, rất cụ thể, rất dễ hiểu đối với mọi người:
Cần, tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm...
Kiệm, là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình, phải tiết kiệm cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, “không liên hoan chè chén lu bù”.
Liêm, là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”.
Chính, nghĩa là không tà, thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình, không tự cao tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người, không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà; không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước, cho dân.